Bánh chưng, Bánh tét - Món ăn truyền thốngBên ngoài xanh lá dong xanh Bên trong nếp đỗ mỡ hành hạt tiêu Gói nghĩa tình, gói yêu thương Dẻo thơm từ thuở Lang Liêu tới giờ.... (sưu tầm) Bánh chưng có nguồn gốc từ thời Lang Liêu mang hình vuông tượng trưng cho Đất và đi chung với bánh dầy mang hình tròn tượng trưng cho Trời. Bánh chưng được người Việt sáng tạo ra gắn liền với sự tích bánh chưng bánh giầy. Theo truyền thuyết, bánh chưng bánh dầy có từ thời Vua Hùng Vương thứ 6, sau khi phá xong giặc Ân. Vua muốn truyền ngôi cho con, nhân dịp đầu xuân, mới hội các con mà bảo rằng: ”Con nào tìm được thức ngon lành để bày cỗ dâng cúng tổ tiên có ý nghĩa hay thì ta truyền ngôi cho".
Các con trai đua nhau kiếm của con vật lạ, hy vọng được làm vua. Người con trai thứ mười tám của Hùng Vương thứ 6 là Lang Liêu (tên chữ gọi là Tiết Liêu), tính tình thuần hậu, chí hiếu, song vì mẹ mất sớm, không có người mẹ chỉ vẽ cho, nên rất lo lắng không biết làm sao, bỗng nằm mơ thấy vị Thần bảo: ”Vật trong trời đất không có gì quí bằng gạo, là thức ăn nuôi sống người. Nên lấy gạo nếp làm bánh hình tròn và hình vuông, để tượng trưng Trời Đất. Lấy lá bọc ngoài, đặt nhân trong ruột để tượng hình cha mẹ sinh thành”. Lang Liêu tỉnh dậy, mừng rỡ làm theo lời Thần dặn, chọn gạo nếp, đậu xanh thật tốt, thịt lợn (heo) ba rọi dày thật tươi. Đến hẹn, các lang (con vua) đều đem cỗ tới, đủ cả sơn hào hải vị. Lang Liêu chỉ có bánh Dầy bánh Chưng. Vua lấy làm lạ hỏi, ông đem thần mộng tâu lên. Vua nếm bánh, thấy ngon, lại khen có ý nghĩa hay, bèn truyền ngôi cho Lang Liêu, tức đời vua Hùng Vương thứ 7. Từ đó, cứ đến Tết nguyên đán hay các đám cưới, thờ cúng, lễ hội... dân gian bắt chước làm bánh chưng, bánh dầy sau thành tục lệ để cúng Tổ tiên, cúng Trời Đất. Bánh tét là biến tấu của bánh chưng về sau, bánh tét trong miền Nam tượng trưng cho con người miền Nam hiền lành chân chất, đơn giản dễ chịu, không cầu kỳ như người miền Bắc. Cho nên bánh tét được làm đơn giản hơn và gọn nhẹ, gói theo kiểu đòn như vậy một phần cũng vì thời tiết miền Nam nóng hơn miền Bắc cho nên nếu gói theo hình vuông to như bánh chưng thì dễ bị mốc ở 4 góc( ảnh hưởng đến nhân bánh) còn nếu là dạng đòn thì nếu có mốc thì cũng không ảnh hưởng vì có thể cắt lát phần mốc bỏ đi. Bánh chưng và bánh tét đều được làm nguyên liệu giống nhau, chỉ khác hình dáng và lá gói bên ngoài. Bánh chưng thơm mùi lá dong, bánh tét thơm mùi lá chuối, tuy khác nhau về phương ngữ nhưng cùng là một quốc ngữ, “Người trong một nước phải thương nhau cùng”, ý nghĩa là vậy. Bánh chưng và bánh tét có hai loại, dùng mặn và dùng chay: Chay thì nhân đậu, nhân chuối, nhân khoai, bỏ đường. Mặn thì nhân thịt, hành, trứng, muối, đậu. Bánh chưng được dâng cho cha, bánh tét cũng được quay về dâng mẹ, mang cùng ý nghĩa của nền “văn hoá gia đình”. Về quê những ngày giáp tết không thể không nhớ những ngày gói bánh, ngồi canh lửa thâu đêm. Quê hương là vậy, giản đơn như ông ngồi dạy cháu gói từng chiếc bánh, là khói lam chiều, là những giây ràng gói bánh, là những chiếc bánh, là mùi vị của chiếc bánh được bóc ra, là ly trà trong đêm, hoặc cút rượu ấm chuyện trò trong khi trông chừng nồi bánh đang nấu. Dù người ta có gói bánh để bán nhiều ngoài chợ, nhưng nhiều gia đình vẫn thích ngồi tự gói bánh và nấu hơn vì do chính tay mình làm ra. Ý nghĩa của chiếc bánh nhiều hơn là chiếc bánh được ăn trong ngày tết. Đó là tình tự của quê hương trong tâm hồn người Việt, khó có thể thay thế. |
Ẩm thựcNền ẩm thực Việt Nam đang chờ đón bạn đến khám phá và thưởng thức đó. Danh sách
All
|