Ở Việt Nam, múa rối là một trong những loại hình nghệ thuật truyền thống. Đến nay nghệ thuật múa rối Việt Nam đã đạt đến trình độ nghệ thuật có giá trị cao về tinh thần, là một trong những loại hình sân khấu giải trí hấp dẫn trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân Việt Nam. Nghệ thuật múa rối dân gian Việt Nam xuất hiện từ thời cổ đại cùng với Nhà nước văn minh – Nghệ thuật thời Hùng Vương gắn liền với tập tục nghi lễ, hội hè Việt cổ cách đây hơn 2000 năm. Nghệ thuật múa rối dân gian Việt Nam xuất hiện từ thời cổ đại cùng với Nhà nước văn minh - nghệ thuật thời Hùng Vương gắn liền với tập tục nghi lễ, hội hè Việt cổ cách đây hơn 2000 năm. Nhưng thực tế cho thấy múa rối tồn tại ở Việt Nam cho đến nay trên dưới 1000 năm, nó phát triển mạnh nhất vào thời Lý - Trần (thế kỷ XI - XII). Hiện vẫn chưa có một tư liệu nào chứng minh được nguồn gốc xuất xứ ra đời của nghệ thuật múa rối. Duy nhất hiện còn lưu trên Bia "Sùng Thiện Diên Linh tự tháp" có niên hiệu Thiên Phù Duệ Vũ thứ 2 (1121) thời Lý Nhân Tông, có ghi trò múa rối nước biểu diễn mừng thọ nhà vua. Điều đó chứng tỏ rằng nghệ thuật múa rối dân gian Việt Nam đã được hình thành từ bao đời nay, được lưu truyền tồn tại và ngày càng phát triển với nhiều thể loại như: Rối tay, rối que, rối dây, rối nhà mồ, rối mặt nạ, rối diều sáo, rối đồ chơi, rối sào, rối bóng... đặc biệt có múa rối nước. Nội dung trong tích, trò, vở diễn mang tính chất mua vui, giải trí, gây cười, rất hóm hỉnh, hài hước, châm biếm... Hoạt động của múa rối dân gian Việt Nam, gắn liền với tín ngưỡng làng xã, một mặt để lễ bái thờ cúng thần linh - Thần Thành Hoàng mặt khác để góp vui cho khách chảy hội... Những người tham gia trong phường rối là các nghệ nhân nghiệp dư, họ là những nông dân thợ thủ công vào thời vụ thì cấy cày, làm đủ nghề kiếm sống, lúc nông nhàn thì tham gia các sinh hoạt nghệ thuật, mỗi phường có một người đứng đầu gọi là ông trùm. Ông trùm tụ tập mọi người (họ là những người tình nguyện) cùng trao đổi, sáng tác và tập luyện các tiết mục, thống nhất biểu diễn một số trò, tích theo yêu cầu. Đó là những phường rối, gánh rối dân gian được nhân dân thành lập và trân trọng gìn giữ lưu truyền đến ngày nay. Tiếp thu vốn nghệ thuật truyền thống, những người hoạt động trong lĩnh vực này đã dành tâm sức, đầu tư, sáng tạo để phát triển hơn lên nhưng không mất đi bản chất nghệ thuật dân gian dân tộc. Nghệ thuật Múa rối dân gian Việt Nam gồm có: Múa rối cạn và múa rối nước. Múa rối cạn có nhiều thể loại khác nhau như: Rối tay, rối que, rối dây, rối bóng, rối mặt nạ, rối nhà mồ, rối lốt... phần lớn các tích trò thường sử dụng các làn điệu chèo, ca trù, tuồng, nhạc cung đình... Đặc biệt trong sự đa dạng, phong phú của nghệ thuật múa rối thế giới, Việt Nam là nước duy nhất có múa rối nước - "độc nhất vô nhị". Múa rối nước đã góp phần làm giàu thêm vốn nghệ thuật truyền thống và là niềm tự hào của văn hóa dân tộc. Múa rối cạn: Nghệ thuật rối cạn dân gian truyền thống phát triển rộng khắp cả nước với nhiều tên gọi: Miền Bắc: ổi, Lỗi, ổi lỗi, Khối lỗi, Rối, Múa rối, Trò, Trò máy,… (Việt): Mộc thầu hí (Nùng), Slương pấtlạp (Tày), Mụa rội (Mường),… Miền Nam: Hát gỗ, Hát hình, … Múa rối cạn có nhiều thể loại khác nhau như: Rối tay, rối que, rối dây, rối bóng, rối mặt nạ, rối nhà mồ, rối lốt,… phần lớn các tích trò thường sử dụng các làn điệu chèo,ca trù, tuồng, nhạc cung đình,… để dẫn trò, hát đế và biểu diễn - Rối tay: Ít dùng trên sân khấu, còn gặp nhiều trong trò nghi lễ chùa chiền. Rối tay thường được chế tạo đầu bằng gỗ, mình khâu vải (không tay), khi điều khiển nghệ nhân lồng bàn tay vào trong lòng khoét rỗng của đầu hoặc cầm một đoạn cán nối dài cổ. - Rối que: Rất phổ biến, nhỏ cỡ 30-35 cm. Đầu tạc liền với mình bằng gỗ, gồm cả tóc, tai, khăn, mũ, bàn tay bằng gỗ gọt liền cổ tay hoặc rời. Điều khiển bằng que tre, que sắt cắm vào mình và cổ tay luồn trong áo. Không có chân, cần tạc thêm đính ngoài. Cũng có nơi, có quân tạo hình cỡ lớn, kiểu hình nhân, đầu mình đan bằng nan dùng diễn thờ, xong đem đốt. Đặc biệt đồng bào Bana tạc hình nhân khá lớn bằng gỗ dùng trong lễ bỏ mả và sau lễ bỏ lại trong nhà mồ.Trên sân khấu, nhiều quân rối dùng thêm dây mềm điều khiển phối hợp với rối que. - Rối máy: Rất thông dụng cả trong đồ chơi, trò chơi và sân khấu. Toàn thân được tạc bằng gỗ riêng từng bộ phận, nối với nhau bằng khớp lỏng. Thường dùng sơn vẽ mầu thay trang phục vải. Điều khiển bằng que, dây. Nhiều quân là trò riêng. Dùng xen với rối tay, rối que. Chuyên dùng trong rối nước, đồ chơi trẻ em, rối diều, rối gió, rối pháo - Rối dây: Chỉ thấy xuất hiện ở vùng biên giới Cao Bằng với tên Mộc thầu hí, Slương pấtlạp, đầu rối bằng gỗ, mình nan đan, bàn tay gỗ, bàn máy điều khiển bằng tre, dây tơ, dây gai mềm, không có chân. Rối dùng để diễn trò và tích trò. Sân khấu thường dựng trên chòi làm sẵn ở các chợ, sòng bạc, … - Rối bóng: Mới phát hiện, xưa có ở tỉnh Kiên giang, có thể từ Campuchia truyền sang. Nay không còn. - Rối mặt nạ: Mặt nạ được làm bằng giấy bồi, xốp, gỗ… được sơn vẽ theo tạo hình nhân vật, khi diễn có thể dùng tay điều khiển, hoặc đeo lên đầu người diễn. - Rối lốt: Mới xuất hiện ở Việt Nam những năm gần đây, thường là người mặc lốt nhân vật để biểu diễn. Ở Việt Nam, nhân vật trên sân khấu rối rất phong phú, là những nhân vật trong các truyện cổ tích , thần thoại như Lý Thông, Thạch Sanh, Sơn Tinh, Thuỷ Tinh, Phù Đổng, … đến các nhân vật hiện đại như Cu Tý, bé Rồng, Anh bộ đội kéo pháo,… Hơn nữa trên sân khấu múa rối những loài động vật, cây cối, nhà cửa, vật dụng… đều có thể trở thành nhân vật có đời sống sinh động và phong phú. Có thể nói sân khấu rối “chấp nhận” mọi sự tưởng tượng phong phú. Các con rối đã biến sự tưởng tượng thành “hiện thực”, không có biên giới ngăn cách cái thật và cái giả, … vì vậy, có nhiều nhà nghiên cứu đã gọi sân khấu rối là “Thế giới tuyệt đẹp của tuổi thơ”. Múa rối nước là một trong những loại hình sân khấu tiêu biểu cho nền văn hóa dân tộc Việt Nam - Thể hiện trí tuệ và sự thông minh, sức sáng tạo của con người Việt Nam. Trong xã hội hiện đại hôm nay, múa rối nước không còn quá xa lạ với quảng đại quần chúng trong nước và trên thế giới. Có lẽ thời gian là một trong những nhân tố giúp múa rối nước định hình, khẳng định và phát triển, được xếp hạng là một trong những loại hình nghệ thuật có giá trị cao, mang tính truyền thống trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân Việt Nam. Thực tế cho thấy, do điều kiện tự nhiên và công việc của nhà nông, có thể nói rằng: Múa rối nước được xây đắp hình thành từ tâm tư, tình cảm của người dân lao động, nó tái hiện cuộc sống và ước vọng của thời đại. Trước kia rối nước chỉ diễn ngoài trời, sân khấu gắn bó, hòa quyện với thiên nhiên, trong không gian mênh mông, trời, đất và nước có cây xanh, mây, gió, lửa, có khói mờ vương tỏa, ẩn hiện mái đình uốn cong và màu ngói đỏ, quả là một sự hòa quyện độc đáo giữa thiên nhiên và con người. Ngày nay, múa rối nước Việt Nam, không chỉ bảo tồn mà đã được khai thác sâu, rộng hơn. Hiện nay, cả nước có 18 phường rối nghiệp dư và 5 nhà hát, đoàn múa rối chuyên nghiệp. Hoạt động của các phường rối phần lớn vẫn theo hình thức phục vụ hội hè, đình đám..., các thành viên tham gia chủ yếu là nông dân trong làng, xã. Có phường các thành viên là ông bà, cha mẹ, vợ chồng con cái dâu rể cùng trong một gia đình. Một số phường rối cũng đã xuất ngoại biểu diễn. Năm 1984, Nhà hát Múa rối Việt Nam chọn lọc một số trò, nâng cao và dàn dựng chương trình rối cổ, biểu diễn phục vụ đông đảo khán giả trong nước, quốc tế. Trong những năm gần đây, múa rối Việt Nam đã mạnh dạn thể nghiệm một số vở diễn với hình thức kết hợp giữa truyền thống và hiện đại, để đáp ứng và phù hợp với tiến độ phát triển của xã hội trong thời kỳ đổi mới. Nói đến nghệ thuật múa rối trước hết phải nói đến nghệ thuật tạo hình. Chúng ta phải thừa nhận một điều: Không có tạo hình con rối thì không có biểu diễn múa rối. Nhân vật rối mang tính ước lệ, tượng trưng, việc đầu tư sáng tạo ngay từ khâu đầu tiên, đó là cái khó đồng thời cũng là đặc thù riêng của múa rối. Nó không theo một khuôn mẫu nào, mà phải trên cơ sở kịch bản để thực thi. Riêng với múa rối nước, tạo hình nhân vật được kết hợp hài hòa hai yếu tố: Nghệ thuật điêu khắc dân gian và nghệ thuật điêu khắc Cung Đình. Mặc dù có rất nhiều thành phần tham gia nhưng riêng tạo hình rối nước có chung một quan điểm đó là: Tính cách nhân vật rõ nét, có chất rối (ngây ngô, ngộ nghĩnh) thích hợp với nước. Để có một con rối nước hoàn chỉnh phải qua những công đoạn sau: - Nghiên cứu kịch bản. - Vẽ maket (nhân vật). - Chọn loại gỗ thích hợp (như gỗ sung, gỗ mít, hai loại gỗ này nhẹ, có độ bền ngâm trong nước, có thớ và dai) - Đục con rối theo kích cỡ, hình dáng đã thống nhất trong maket (có con rối phải đục rỗng bên trong giảm trọng lượng). - Phơi khô, làm nhẵn bề mặt con rối. - Hom sơn ta (loại sơn chống thấm nước giữ độ bền gỗ) đế xốp được quấn nhiều lớp vải mỏng (vải màn) phủ sơn ta và phơi khô. - Thếp bạc, vàng cho con rối (theo tính cách nhân vật) - Hóa trang con rối (phần lưng con rối Lân, Sư tử hoặc phần đuôi con rối Phượng, được may bằng vải dầy hoặc chất liệu cứng, có trang trí họa tiết. - Lắp máy, dây, sào con rối (bộ máy tùy thuộc tính cách nhân vật). Để hoàn thành một bộ rối nước (16 trò) phải mất khoảng 4 đến 5 tháng, chưa kể thời tiết ẩm thời gian để con rối khô còn kéo dài hơn. Đa phần con rối nước không làm to, thường chỉ vừa phải khoảng 60cm đến 75cm. Trong tạo hình con rối có ít nhiều theo theo truyền thống tạc tượng dân gian, thoáng có nét con người trong nghệ thuật đình làng.Con rối là một phần của nền tạo hình dân gian truyền thống, vì vậy tác dụng trực cảm khá mạnh. Tạo hình con rối nước đã góp phần khẳng định thêm về bản sắc dân tộc của nghệ thuật múa rối. Mặt khác, trong hệ thống con rối cổ truyền, phần nào chúng gần gũi với tự nhiên và thế giới siêu linh hơn, gắn với ước vọng mang nét khái quát và tính biểu tượng mạnh hơn, các tiết mục có nội dung vui vẻ mang tính giáo dục nhẹ nhàng, nhưng sâu sắc. Hiện nay con rối trở nên cụ thể, động tác và trình diễn cũng trở nên cụ thể hơn, đi sâu vào các tiểu tiết khiến người xem thích thú, ở cái hay, khéo của kỹ thuật điều khiển, mà tính trừu tượng của dân gian vì thế việc phát huy cũng không đơn giản. Hiện nay, với góc nhìn tạo hình có thể nói con rối có những đặc điểm như sau: Về thành phần; có cả thần linh, linh vật, anh hùng dân tộc, cảnh tăng gia sản xuất ở nông thôn. Màu sắc,trước kia thường dùng màu đỏ, màu hồng diện, màu đen, vàng dòng..., còn hiện nay màu sử dụng theo kỹ thuật cho phép, kỹ thuật điều khiển phức tạp hơn. Kích thước con rối vẫn tuân thủ tính khái quát như trước. Về cách tạo tác, con rối từ đầu đến thân được tạc liền trên một khúc gỗ, chân, tay được gắn vào thân bằng những cái chốt bằng gỗ.Chính vì lẽ đó nên các động tác con rối cử động khó khăn, điều đó tạo cho rối trở nên ngây ngô hơn, song đó là điều khiến người xem thích thú. Trang phục con rối hầu hết bó sát vào người vì tạc liền trên một khúc gỗ, ranh giới phân biệt là màu sắc.Nhìn chung con rối tươi vui, ngộ nghĩnh, hồn nhiên, hóm hỉnh và hài hước. Tạo hình con rối đã góp phần khẳng định thêm về bản sắc dân tộc của nghệ thuật múa rối. Biểu diễn múa rối nước - nước là một yếu tố rất quan trọng, giúp con rối sinh động, hấp dẫn và tạo ra rất nhiều tình tiết bất ngờ kích thích sự tò mò, tăng thêm lòng cảm phục của người xem. Trên thực tế, khi "chú Tễu" - nhân vật dẫn trò của múa rối nước xuất ngoại lần đầu tiên (năm 1984) đã chiếm được tình cảm và sự thán phục của bè bạn quốc tế. Từ đó đến nay, múa rối nước Việt Nam đã không còn xa lạ với quảng đại khán giả trong và ngoài nước. Múa rối nước thực sự đã gây tiếng vang và góp phần không nhỏ trong việc nâng cao sự hiểu biết và uy tín cho nền văn hóa dân gian - dân tộc Việt Nam. Phát huy và gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc, múa rối nước Việt Nam trong những năm gần đây, không chỉ dừng lại ở vốn cổ, những người yêu nghệ thuật múa rối đã và đang nghiên cứu, đổi mới phương thức dàn dựng và nội dung, phong phú hơn, đa dạng hơn cho nghệ thuật múa rối. Nguồn: https://www.youtube.com/watch?v=izNBWFTjfXU
|
Văn hóaHãy cùng tôi tìm hiểu nền văn hóa đa dạng và phong phú của Việt Nam nha! Danh sách
All
|