Nước Việt ta đã trải qua vô số thời kỳ lịch sử gắn với các giai đoạn phát triển cụ thể về bản sắc văn hoá, phong tục tập quán. Đặc biệt trang phục của người Việt trong từng giai đoạn đã tạo nên những dấu ấn rất riêng, đặc biệt là trang phục của người phụ nữ. Nước Việt ta đã trải qua vô số thời kỳ lịch sử gắn với các giai đoạn phát triển cụ thể về bản sắc văn hoá, phong tục tập quán. Đặc biệt trang phục của người Việt trong từng giai đoạn đã tạo nên những dấu ấn rất riêng, đặc biệt là trang phục của người phụ nữ. 1. Thời Hùng Vương Khác với nhiều tranh ảnh, sách truyện thường minh họa trang phục phổ biến thời này là nam cởi trần, đóng khố bằng lá cây, nữ mặc yếm và váy ngắn khá sơ khai, theo nhiều khảo sát có cơ sở khoa học vững chắc, các nhà nghiên cứu đã khẳng định ngay từ thời kỳ đầu mở nước, nghệ thuật dệt vải đã ở trình độ cao, với ít nhất hai loại vải dệt từ cây và sợi. Những hoa văn trên mặt trống đồng hay hình khắc trên cán dao bằng đồng có từ thời kỳ này cho thấy phục trang Việt đã được định hình rất rõ nét. Đây cũng chính là căn nguyên cho bản sắc văn hóa thể hiện trong y phục truyền thống của người Việt Nam hiện nay. Phụ nữ thời Hùng Vương thường mặc áo ngắn đến bụng, xẻ ngực, bó sát vào người, phía trong mặc yếm kín ngực có cổ tròn sát cổ, trang trí thêm hình những tấm hạt gạo. Cũng có những loại áo cánh ngắn, cổ vuông, để hở một phần vai và ngực hoặc kín ngực, hở một phần vai và trên lưng. Hai loại sau có thể là loại mặc chui đầu hay cài khuy bên trái. Trên áo đều có hoa văn trang trí. Thắt lưng có ba hàng chấm trang trí cách đều nhau quấn ngang bụng… Váy kín ôm sát với mô típ trang trí theo họa tiết tương đồng với trống đồng Đông Sơn. Người Viêt cổ nam nữ thường đeo đồ trang sức như: - Những loại khuyên tai được dùng phổ biến là có dạng hình tròn, hình vành khăn bản to… . - Bao ống tay, bao ống chân với tiết diện khác nhau: tròn, vuông, chữ nhật, có trang trí hoa văn hình lông chim hay bông lúa, chất liệu bằng đá màu vàng, xanh... hoặc mang đồng thau. Cũng có loại bằng thủy tinh, hãn hữu có loại bằng ngọc. - Ngoài ra còn nhiều loại nhẫn bằng đồng đeo ở ngón tay, cũng có gắn quả nhạc dài xinh xắn. Tuy những đồ trang sức còn thô sơ, điều kiện kỹ thuật chế tác hạn chế, con người thời đó đã có trình độ thẩm mỹ và óc tưởng tượng cao, đã quan tâm làm đẹp cho thân thể, đồng thời thể hiện bàn tay khéo léo, cần cù lao động 2. Triều Lý Là một trong những giai đoạn cực thịnh của triều đại phong kiến, vua thời Lý đã ban hành những quy định về phục trang để phân biệt giữa các tầng lớp nhân dân và quan lại. Nhà vua còn thể hiện tinh thần tự lập tự cường của dân tộc qua việc không dùng gấm vóc của triều Tống để may lễ phục mà sử dụng các chất liệu vải trong nước. Điểm nổi bật nhất trong trang phục thời này là sự phát triển sang một cấp độ mới của hoa văn trang trí, không còn là những hình ảnh đơn giản và thô sơ, các hoa văn hình xoắn, hình móc… được thêu tinh xảo trên trang phục, thể hiện sự giao hòa đầy ý nghĩa giữa thiên nhiên và cuộc sống con người - Trang phục phụ nữ người Việt cổ bao gồm khăn đội đầu (khăn vuông), khăn vấn tóc, yếm, thắt lưng, áo cánh, váy, áo tứ thân, áo năm thân. Chiếc yếm của phụ nữ là một miếng vải hình vuông khoét một góc tạo thành cổ, phần vải còn lại tạo thành chiếc yếm ở trước ngực làm đồ lót mặc sát người của phụ nữ Việt Nam. - Yếm thường được may bằng lụa hoặc vải nõn sợi nhỏ hoặc vải quyến đủ các màu sắc trừ màu đen. - Thắt lưng trong trang phục phụ nữ thời Lý thường được dệt bằng lụa sồi có độ dài thắt quanh người hai vòng, mà vẫn còn dài để có thể thắt nút giọt lệ, buông rủ dải thắt lưng xuống phía trước. - Độ dài thắt lưng khoảng 1,5-2m, rộng chừng 15-20cm. Hai đầu thắt lưng người ta chừa khoảng sợi dọc (còn gọi là sợi canh) không dệt, để tết tua cho đẹp. Thắt lưng được nhuộm theo màu cầu vồng năm sắc sặc sỡ. Phụ nữ thường thắt hai thắt lưng, làm lộ ra nhiều màu sắc đẹp thêm cho trang phục. - Váy phụ nữ Việt thời đó gồm ba phần: cạp váy, gấu váy (còn gọi là lai váy) và thân váy. Loại váy dài thường dùng trong lễ phục thì buông trùng tới mu bàn chân. Người giàu mặc váy bằng lụa, lĩnh, hoặc loại lụa dệt dày láng bóng. 3. Nhà Trần tới tiền Lê · Điểm nổi bật nhất trong triều đại nhà Trần chính là 3 lần đánh bại giặc xâm lược Nguyên – Mông. Do liên tiếp phải đối đầu với những kẻ thù hùng mạnh, nên tâm lý sẵn sàng “quyết tử cho tổ quốc quyết sinh” luôn thường trực trong cuộc sống quân dân thời Trần, ảnh hưởng đến cả phục sức và quan niệm thẩm mỹ của cả dân tộc. · Trang phục dân tộc của phụ nữ được chia làm 2 giai đoạn. - Từ thế kỷ 13-15 đặc trưng với áo có phần ống tay rộng, phần áo choàng có cổ áo khoét sâu rộng, bên trong mặc một chiếc yếm quây. Mũ chùm kín tóc, phía trên mũ được làm cao lên và trang trí các diềm uốn lượn. - Đến thế kỷ 15-16, thời kỳ cuối nhà Trần, đầu nhà Lê, phần cổ áo đã được may kín đáo hơn với phần cổ tròn, ống tay gọn gàng hơn. Tuy nhiên, màu sắc lại có phần cầu kỳ và bắt mắt hơn. Áo cánh trong: tay dài và chít ở cổ tay. Bên ngoài là một chiếc áo, cộc tay. Quanh cổ áo có chiếc vân kiên (như chiếc yếm dài) chùm cả một phần ngực, lưng và vai. Quanh bụng đeo những miếng diềm vải rộng có trang trí nhiều đường thêu đẹp. Bụng chân quấn xà cạp và chân đi giày vải mũi nhọn. 4. Nhà Lê - Có thể nói thời kỳ nhà Lê là thời kỳ thăng hoa của trang phục phụ nữ Việt Nam khi giai đoạn này xuất hiện rất nhiều kiểu dáng và thiết kế vô cùng đa dạng. Nhưng nhìn chung các trang phục thời nhà Lê đều có thiết kế khá cầu kỳ với nhiều lớp áo choàng, màu sắc bắt mắt. - Chịu ảnh hưởng nhiều từ văn hóa Trung Hoa nên các trang phục truyền thống thời kỳ nhà Lê chưa thoát khỏi cái bóng của vùng đất hùng mạnh này. - Trang phục của phụ nữ Việt thời Lê có nhiều nét giống với kiểu áo choàng Hanfu của Trung Quốc với phần ống tay rộng, chiếc thắt lưng to ngang eo được dùng để cố định bộ áo choàng này lại. - Ngoài ra còn có nhiều trang sức như vòng tay tròn dẹt, hoa tai hình quả bầu, hình hoa sen hoặc tròn… - Chính vì ảnh hưởng bởi văn hóa Trung Hoa mà bộ trang phục này không được nhiều người hưởng ứng. 5. Nhà Mạc Trang phục trong triều đại này đã rất gần với chiếc áo tứ thân, vấn khăn mỏ quạ của phụ nữ làng quê Việt Nam vào thế kỷ 19-20, với sự xuất hiện của “mốt” để tóc dài, vấn khăn, rẽ đường ngôi giữa, mặc áo dài tứ thân cổ tròn, thắt lưng buông dài trước bụng, váy dài và rộng. 6. Thời Hậu Lê - Cho đến thời kỳ Hậu Lê bắt đầu xuất hiện nhiều kiểu trang phục khác nhau và các bộ váy áo đã thể hiện được nét văn hóa riêng. Những bộ trang phục của phụ nữ thời kỳ Hậu Lê rất kín đáo với nhiều lớp áo mang nhiều màu sắc khác nhau. Đặc trưng nhất vẫn là phần ống tay rộng. - Bên trong áo kín, có lớp áo bên ngoài cùng dây lưng buộc buông dài phía trước bụng. 7. Thời Hậu Lê - Tây Sơn Trang phục phụ nữ thời Tây Sơn khá cầu kỳ với các chi tiết thêu, may đắp tỉ mỉ và đặc biệt trang phục của phụ nữ thời này hơi giống chiến phục và thay vì váy thì họ mang quần. Những năm đầu thế kỷ 19, phụ nữ bị cấm mặc váy vì cho là dung tục. 8. Nhà Nguyễn - Đời sống xã hội trong thời kỳ này có ảnh hưởng không nhỏ đến trang phục của người dân. - Nếu như trang phục của tầng lớp thống trị ngày càng bị “pha tạp” theo lối đua đòi cải cách nửa mùa, thì trong xã hội, những phục trang truyền thống như áo dài, áo yếm, áo tứ thân, khăn mỏ quạ, nón quai thao… đã trở thành hơi thở và là kết tinh văn hóa của cả dân tộc.
- Yếm đào, áo tứ thân: Mặc dù yếm đào đã xuất hiện từ xa xưa, nhưng đến thế kỷ 19 dưới triều Nguyễn, chiếc yếm mới trở thành một trong những loại “quốc phục” được cả dân tộc nâng niu, trân trọng. Chiếc yếm chính là hiện thân đầy quyến rũ, gợi cảm của nét đẹp phụ nữ Việt Nam. Có nhiều loại yếm như yếm cô viên cổ tròn, yếm cổ xẻ hình chữ V, yếm cổ cánh nhạn, yếm cổ xây… Đặc biệt là loại yếm “đeo bùa” là một “vũ khí lợi hại” mang đến nhiều vấn vương cho người đối diện bởi mùi xạ hương thoang thoảng được giấu bên trong yếm. Vào những ngày lễ tết, chiếc yếm màu sắc giản dị nâu non, trắng… được thay bằng các màu sắc rực rỡ, tươi sáng như yếm điều màu đỏ, yếm đào, yếm thắm. - Cùng với chiếc yếm đào là tà áo tứ thân tha thướt và duyên dáng. Chiếc áo tứ thân ra đời do kỹ thuật dệt vải ngày xưa còn thô sơ nên hàng vải dệt ra có khổ hẹp, chừng 40 cm, muốn may thành áo phải ráp bốn mảnh thân lại với nhau. Chiếc áo tứ thân còn gọi là áo Giao Lãnh xưa – tức là loại áo khi mặc hai thân trước giao nhau mà không buộc lại, sau vì phải làm việc đồng áng, buôn bán… nên các mẹ, các chị “cải biên” lại thành áo tứ thân cho tiện lợi. - Có nhiều loại áo tứ thân, nhưng thường người ta hay bắt gặp loại áo tứ thân buông tà hay thắt vạt trên đồng, trên nương hay họp chợ…, còn loại áo mớ ba, mớ bảy thường được chị em ưu ái chọn để làm duyên trong các dịp hội hè, đình đám. Áo tứ thân mang nhiều ý nghĩa sâu sắc về nhân sinh quan và tình cảm con người, với bốn thân áo tượng trưng cho tứ thân phụ mẫu, hai tà trước buộc lại với nhau tượng trưng cho tình nghĩa vợ chồng âu yếm, khắng khít bên nhau. Áo thường được may bằng các chất liệu như vải chúc bâu, diêm bâu, dôi, vải rồng Nam Định, vải the, lụa, nhiễu….
|
Văn hóaHãy cùng tôi tìm hiểu nền văn hóa đa dạng và phong phú của Việt Nam nha! Danh sách
All
|